Miền Nam Việt Nam Và Hành
Trình Vào Quên Lãng.
Đây là bài điểm sách của Daryl McCann
về tác phẩm Black April: The Fall of South Vietnam, 1973-1975 của tác giả George J
Veith.
Nguyên văn Anh ngữ của bài
viết tựa đề là South Vietnam’s Journey into Oblivion được đăng trên trang
Quadrant.(Dec
2012)
Tác
phẩm Black April
của George J Veith
thuật lại con đường đi vào quên lãng của Miền Nam Việt Nam. Luận cứ của ông cho
rằng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa có đầy đủ tính chất ngay thẳng và dũng cảm của
nó, nhưng đã bị những nhân vật quyền lực đố kỵ bỏ rơi. Quân đội nầy có thể sẽ
chiến đấu hữu hiệu hơn vào giai đoại cuối nếu Quốc Hội Mỹ, sau vụ bê bối Watergate, cung cấp đầy đủ các chiến
cụ tối cần thiết như đã hứa, bao gồm nhu cầu nhiên liệu cấp thiết và phụ tùng máy
bay cho lực lượng Không quân. Đến năm 1975, Cộng sản Việt Nam đã mất đi lý tưởng
và cuộc chiến tranh du kích mà họ đã dùng để chống lại nhân dân miền Nam kéo dài
hơn 50 năm, và vì thế trận đụng độ cuối cùng giữa Hà Nội và Sài Gòn đã diễn ra đơn
thuần chỉ là một cuộc xăm lăng võ trang. Mặc dù phải chịu đựng nhiều sai lầm to
tát của những nhận vật lãnh đạo quan trọng, tiền đồn chống Cộng duy nhất ở miền
Nam Việt Nam vẫn là một chính nghĩa không thể chối bỏ được, nhưng cuối cùng họ đã
bị phản bội.
Black
April, với
nội dung sưu tập các biến cố rất sâu rộng nhưng rất chi tiết, đã bác bỏ cái
quan điểm “chính thống” cho rằng miền Nam và đồng minh của họ đã không thể thắng
được cuộc chiến nầy. Tuy nhiên, Veith bắt đầu câu chuyện bằng một nhận định rất
hiển nhiên cho rằng mặc dầu Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa ở trong tình thế có lợi
nhưng rất khó đánh trả một lực lượng quân số lớn, có tính điều hợp cao của Quân
Đội Nhân dân Việt Nam. Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh thắng miền Nam vào năm
1975 là một lực lượng rất “hùng mạnh” so với đội quân năm 1972, đoàn quân đã thất bại
trong “mùa hè đỏ lửa”. Huấn luyện quân sự do Liên Sô cung cấp đóng vai trò quan trọng
nhưng “bài học khó
thắng”
thu lượm được từ năm 1972 đã giúp nâng cao khả năng chiến đấu, bao gồm “tinh
vi hóa kế hoạch quân vận, hoàn chỉnh khả năng kỹ thuật, và chi tiết hóa các phân
tích chính trị-
quân sự”
Veith còn đề cập đến việc các gián điệp Cộng sản đã cung cấp cho Hà Nội bí mật
quân sự của Sài Gòn vào năm 1975. “Lợi điểm nầy cho phép quân đội Nhân dân
Việt Nam lên kế hoạch tấn công với các thời điểm cụ thể và rỏ ràng đồng bộ với
kế koạch phản công, rút lui cùng với các cuộc hành quân khác của quân đội Việt
Nam Cộng hòa.”
Một
yếu tố không kém quan trọng khác có ảnh hưởng đến cục diện chiến cuộc là địa thế
của miền Nam gây khó khăn cho vấn đề bảo vệ lãnh thổ trong cuộc chiến tranh xăm
lược thuần túy từ miền Bắc - điều nầy có thể nói là do thế trận trải dài.
Quân
đội Việt Nam Cộng hòa phải bảo vệ cạnh sườn phía tây dài hơn 800 dặm, với các vùng
dân cư thưa thớt và đất đai có nhiều hầm hố trên mặt, tạo thành thế bảo vệ tự
nhiên cho Đường mòn Hồ Chí Minh - mà nay đã đươc trải nhựa. Lợi điểm nầy chứng
minh một cách khá trung thực là đoàn quân của Quân đội Nhân dân có thể xuất hiện
bất ngờ và cắt Quân đội Cộng Hòa ra làm đôi, chiến thuật nầy đã xãy ra đúng như
vậy ở cao nguyên Trung phần trong giai đoạn mở đầu chiến dịch tấn công năm
1975.
Vận
may - hoặc sự thiếu may mắn - cũng đóng vai trò trong sự sụp đổ của miền Nam Việt
Nam. Ngày 10 tháng Ba, khi hàng ngàn bộ đội và sáu chục chiếc xe tăng dơ bẩn và
móp méo của quân đội Nhân dân xuất hiện đầu tiên tại Ban Mê Thuột, thuộc cao
nguyên Trung phần Việt Nam, chúng đã mau chóng áp đảo nơi nầy. Điểm cố thủ cuối
cùng của quân đội Việt Nam Cộng Hòa là hậu cứ của bộ chỉ huy sư đoàn 23 bộ
binh. Khi xe tăng T-54 của Liên Sô tiến vào cổng trại chỉ huy và đã hiện rõ trong tầm nhìn, Đại tá Nguyễn Trọng
Luật của Quân đội Cộng Hòa miền Nam, đứng trên chiếc xe thiết giáp M-113 ra lệnh cho người trung
sĩ ngồi thụp xuống cạnh ông để bắn hạ chiếc tăng.
“Bắn!”
người trung sĩ kéo cò. Tách “Kẹt đạn!” người trung sĩ la lên. Anh kéo toạt ổ khóa
nòng súng ra và tìm thấy chổ hư: kim mồi lửa bị gảy. Và anh không còn bộ phận
thay thế. Từ trên thiết vận xa M-113, Luật phóng thẳng xuống đất, huy động quân
lại để chận đứng kẻ thù đang tràn tới.
Hậu
quả của riêng sự việc nầy, theo Veith, thật là một thãm hại. Nếu chiếc tăng T-54 bị bắn hạ thì quân đội
miền Bắc phải nhờ đến bộ binh đánh chiếm căn cứ và việc nầy phải cần thời gian.
Trong lúc chờ đợi đó, lực lượng của quân đội miền Nam có thể chỉnh đốn đội ngũ,
được tăng viện để giải cứu. Nhưng thay vào đó, quân đội Nhân dân nhanh chóng đè
bẹp bộ chỉ huy của quân đội Việt Nam Cộng hoà và Ban Mê Thuột đã hoàn toàn thất
thủ. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã làm cho tình hình nguy ngập hơn bằng cách
cho triệt thoái các lực lượng quân đội thường trực ở cao nguyên Trung phần, “mở
đầu cho sự tan rả”
và cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của Sài Gòn chỉ vỏn vẹn có năm mươi
lăm ngày sau đó.
Black April đã cung cấp một chất liệu
hình ảnh đậm nét về diễn biến lui quân của quân đội Việt Nam Cộng hòa từ Cao
nguyên miền Trung về vùng duyên hải. Câu chuyện thật quá hãi hùng, trong đó “gần
mười tám ngàn binh lính Việt Nam Cộng hòa đã bị bắt sống hoặc bị giết trên đường từ đèo Cheo Reo về Tuy Hòa.” Đặt tên một cách chính
xác là “Con Đường Đẩm Máu và Nước Mắt” thất bại nầy đứng thứ nhì trong cuộc chiến bởi
vì sau đó vào cuối tháng Ba khi Quân đoàn 1 của Quân lực Việt Nam Công Hòa không
giữ được Đà Nẵng “đã tan rã hàng ngũ trong một chiến bại thê thãm nhất trong
lịch sữ chiến tranh hiện đại”
Sự sụp đổ của nước Cộng hòa miền Nam không phải
do “quân đội không đủ khả năng chiến đấu hoặc chế độ bất công của các nhà độc tài.” mà là kết quả của sáu
yếu tố then chốt sau:
Hiêp
định Hòa Bình Paris hoàn toàn bị miền Bắc chối bỏ; đặc tính yếu kém của kinh tế
miền Nam; thiếu thốn nhu cầu chiến tranh do Mỹ cung cấp để ngăn chận các cuộc tấn
công khổng lồ; viện trợ của Mỹ bị
cắt giảm tối đa; và sai lầm quân sự to lớn của Tổng thống Thiệu khi đối đầu với
các cuộc tấn công trên bình diện lớn của Cộng sản.
Tình
trạng mất tinh thần chiến đấu trong các lực lượng quân sự miền Nam là do hệ quả
của các yếu tố trên, nhưng không hẳn vậy, đã có một số trường hợp người lính Cộng
hòa không những thực thi nhiệm vụ của mình một cách vô cùng can đảm mà còn thật
sự chói ngời.
Đầu tháng Tư, theo Veith, thị xã Xuân Lộc bổng
trở thành một yếu điểm trên tuyến phòng thủ mới mà quân đội miền Nam cố gắng thành
lập vòng đai bảo vệ quanh Sài Gòn. Chiến thắng nầy là cơ hội cuối cùng nhưng rất
mỏng manh nhằm cứu vớt nước Cộng hòa Việt Nam, dưới hình thức nầy hoặc hình thức
khác, khỏi bị xóa tên khỏi bản đồ. Mùa mưa sắp đến và nếu Quân đội Việt Nam Cộng
hòa có thể giữ vững được vị trí và đẩy lui các cuộc tấn công của Cộng sản thì Sài
Gòn và các tỉnh chung quanh có thể cầm cự được lâu hơn. Một trận đánh thắng có
thể nâng đỡ uy tín của Tổng thống Thiệu và giúp ông tập hợp dân tộc đang hoãng
sợ của ông lại (hay đúng ra chỉ những gì còn xót lại). Một chiến thắng quân sự
có thể cải thiện mối quan hệ với Hoa Kỳ để cuối cùng họ phải thực hiện lời hứa
của Tổng thống Nixon trước khi ông từ chức (trong năm 1972) là bảo vệ miền Nam
nếu Hà Nội diễn lại màn tổng tấn công như năm 1972.
Black April đã theo dõi sát sao lệnh chỉ huy gần như
hoàn hảo của Tướng Lê Minh Đảo, ông đã ban ra nhiều chiến thuật điều binh rất mưu
lược, lệnh nầy tiếp theo lệnh khác để giữ chân đoàn quân quá đông của quân đội
Nhân dân. Ngày 9 tháng Tư, quân Bắc Việt mở màn với một trận pháo kích dữ dội vào
trung tâm thành phố. Đảo đã đoán trước điều nầy, liền phân tán lực lượng của ông
vào các khu vực xa thành phố. Cho rằng quân đội miền Nam có thể dễ dàng bị đánh
bại, bộ đội miền Bắc dùng chiến thuật thông thường, tấn công trực diện phía trước
và theo sau là các bộ phận khác, đánh vào thành phố. Mất trắng toàn bộ! Chiến
xa của quân miền Bắc hoàn toàn bị phá hũy kể cả lực lượng bộ đội theo sau. Trận
phản công cực kỳ chính xác nầy do Đảo chỉ huy diễn ra ngay sau trận tấn công của
quân Cộng sản. Chiến trường trên vùng ngoại ô Xuân Lộc, được mô tả như một trận
địa trong Thế chiến Thứ Hai. Ngày qua ngày, giữa cảnh hoang tàn, đổ nát của thành
phố đã dần dần biến thành đống gạch vụn. Các người lính dũng cảm miền Nam tay
trong tay can trường chiến đấu, lựu đạn ném vào hầm trú ẩn bên cạnh và đạn pháo
nổ liên tục chung quanh vị trí của họ. Hằng trăm chiến hữu của họ đã ngã gục
trong trận đánh nhưng đổi lại bằng hằng ngàn xác chết của quân thù. Tuy nhiên,
cuối cùng vì lực lượng của Cộng sản quá đông, cho nên vào tối ngày 20 tháng Tư,
Tướng Đảo đã điều khiển một cuộc rút binh mạo hiểm nhưng kỹ luật dựa vào bóng tối
của màn đêm, kể cả việc ông đi cùng binh lính của ông một đoạn đường đất dài
hai mươi lăm dặm.
Ngày
14 tháng Tư, Henry Kissinger đã tranh cải với Ủy Ban Quan Hệ Đối Ngoại Thượng
Viện là Xuân Lộc đã chứng tỏ là quân đội miền Nam sẳn sàng chiến đấu để bảo vệ đất
nước và đáng được nhận sự ủng hộ của Quốc Hội. Veith ghi nhận là không những đa
số các nghị sĩ Dân chủ không lay chuyển trước lời khẩn khoản của Kissinger. Thượng
nghị sĩ Cộng Hòa, Jacob Javits của New York, tuyên bố “Tôi sẽ giao cho ông một
số tiền lớn để di tản các [công dân Mỹ] nhưng không một xu nhỏ viện trợ quân sự
cho Thiệu.”
Hơn
nữa, ngày 17 tháng Tư, Ủy Ban Quân Vụ của Thượng viện cũng từ chối đề nghị tương
tự của tòa Bạch Cung về biện pháp hổ trợ nhằm giúp đở cho Việt Nam Cộng Hòa, sự
việc nầy đã “phản ánh ý muốn thắng
thế”
trong Quốc Hội là “không còn muốn dính dáng gì đến Việt Nam nữa.” Cay đắng tuyên bố “người
Mỹ bội tín”
Thiệu từ chức tổng thống vào ngày 21 tháng Tư năm 1975. Không còn lựa chọn nào
khác cho người dân miền Nam, ngoại trừ, bấy giờ Trần Văn Hương , 71 tuổi, đứng
ra làm người lãnh đạo chính trị cuối cùng của Sài Gòn.
Trận
đánh vào Sài Gòn, Black April mô tả là, không phải “chuyện dễ dàng”. Ngay cả các tướng lãnh
Bắc Việt thừa nhận là không có sự đón chào “nồng nhiệt”nào cả cho quân đội Nhân
dân. Veith cung cấp con số được phỏng đoán là khoảng 6000 bộ độ Bắc Việt chết và
bị thương, cùng với “khoảng100 ...chiến xa... bị phá hũy, bao gồm 33 chiếc
xe tăng và xe bọc
thép.”
Chính quyền miền Nam chính thức đầu hàng sau khi xe tăng vào đến Dinh Độc Lập.
Veith đã tranh cải là sự kiện nầy đã cứu Sài Gòn khỏi bị phá hũy: “Trong khi
phần lớn người dân miền Nam căm ghét giải pháp đầu hàng của Minh, bởi vì Quân đội
Cộng Hòa vẫn còn ít nhất hai mươi bốn giờ để chuẩn bị cho việc chống trả.”
Theo
Veith, thì lần nầy không có kiểu “giết người tập thể” đối với các binh sĩ Công
hòa như Cộng sản đã làm trong năm 1968 khi họ chiếm giữ thành nội Huế trong một
thời gian rất ngắn. Trong lúc nầy,
Cộng sản đang cố gắng từ bỏ kiểu giết người tập thể – tuy nhiên một số lớn các
vụ tàn sát dã man vẫn xãy ra - hệ thống nhà tù được biết là “trại Tù Chính
Trị” đã
mọc lên khắp nơi trong các vùng xa xôi trên toàn nước. Hằng trăm ngàn tù nhân lính
Cộng hòa đã bị cưỡng bức “lao động khổ sai trong rừng rậm, thiếu thốn thức ăn,
thuốc men hoặc không đủ quần áo để mặc.” Hằng ngàn người bị chết. Các viên chức cao cấp
của miền Nam đã bị giam giữ trong điều kiện như thế cho đến năm 1987 và đối với
các trường hợp “ngoan cố” thì bị giam lâu hơn có thể đến năm 1992.
Thay
vì biểu hiện hành động “giải phóng tự do”, đoàn quân đánh chiếm Cộng hòa Việt Nam đã
là cơn ác mộng cho đa số nhân dân miền Nam, điều nầy minh chứng được lý do “hằng
triệu người
đã kinh hoàng bỏ chạy trước khi Cộng sản đến.” Cộng vào con số nầy, có
hơn 165.000 tù nhân đã bỏ mạng trong các trại tù cải tạo của Cộng sản. Veith không
đi vào chi tiết, nhưng phỏng đoán là vào khoảng từ 200.000 đến 400.000 người dân
miền Nam đã chết trên biển trong khi tìm đường trốn thoát thảm họa chủ nghĩa Cộng
sản. Đối với các nhóm khuấy động chống Mỹ ở Tây phương, họ đã thần tượng hóa cái
viễn ảnh một nước Việt Nam thống nhất của Hồ Chí Minh mà không cảm nhận được cái
nguyện vọng tha thiết của nhân dân miền Nam là “không muốn làm công cụ cho sự
bóc lột của chủ nghĩa Cộng sản.”Nhóm Thiên Tả đã có quá nhiều sai lầm về chiến
tranh Việt Nam, kể cả việc họ cho rằng Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc là một biểu
hiệu thực sự từ nguyện vọng của người dân miền Nam. Mặt trận Giải phóng Dân tộc
thực ra chỉ là một chiêu bài chính trị của Hà Nội. Sau khi Sài Gòn sụp đổ, giữa
nhân dân miền Nam và các ngài lãnh đạo mới của Cộng sản miền Bắc không có một gạch
nối trung gian nào cả.
Veith
dự tính viết phần tiếp theo, tập trung vào các yếu tố ngoại giao đã gây nên sự
sụp đổ của nước Việt Nam Cộng Hòa, nhưng ông có đề cập trong Black April là Nguyễn Văn Thiệu tin
rằng Hoa Kỳ - mà đặc biệt hơn cả là Nixon và Kissinger – đã ép buột ông phải ký
vào Hiệp Định Hòa Bình Ba Lê, một hiệp định có nhiều lợi thế cho Hà Nội nhưng đi
ngược lại các phán đoán xác thực của ông. Nói thẳng ra “Hoa Kỳ hăm dọa sẽ cắt
viện trợ nếu ông không ký vào hiệp định.” Trên phương diện chính trị-địa lý, Chiến
tranh Lạnh
đã chuyển sang giai đoạn mới với sự xích lại gần nhau của Hoa Kỳ và Cộng hòa Nhân
dân Trung quốc cho nên sự tồn tại của Nam Việt Nam không còn là vấn đề quan trọng
nữa trong thực chất quan hệ chính trị giữa Mạc Tư Khoa và Hoa Thịnh Đốn. Tuy
nhiên, Veith đã vạch ra một điểm vô cùng nguy hiểm là chủ nghĩa thực dụng không
bao giờ nên dùng làm “phương châm
duy nhất”
trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Cuối cùng, Mỹ đã bỏ qua một sự thật là vấn
đề can thiệp vào miền Nam Việt Nam không phải chỉ vì chủ thuyết Domino (chủ thuyết chính trị
nhằm bảo vệ bán đảo Đông Dương chống lại Cộng sản) sai lầm và tai hại; mà nó còn
phải giúp “nhân dân miền Nam bảo vệ quyền tự do của họ.”
Có
phải do một sự non yếu và nông cạn nào đó đã làm cho Nixon và Kissinger cả tin
rằng Cộng sản sẽ làm đúng những điều cam kết? Miền Bắc Việt Nam đã được quyền bất
tuân hầu hết các điều khoản họ đã
ký kết trong hiệp định năm 1973: “Trong vòng hai năm, miền Bắc đã đưa một đội
quân khổng lồ vào miền Nam, hoàn toàn trái ngược với nội dung nghiêm chỉnh của hiệp
định.”
Các lãnh tụ miền Bắc không bao giờ tôn trọng mục đích giả tạo của Hiệp Định Hòa
Bình Ba Lê năm 1973, là chấm dứt chiến tranh, tái lập hòa bình. Một nguyên do
khác, họ e ngại rằng việc Mao bắt đầu tái lập quan hệ với thế giới tư bản có thể
mở ra một mối quan hệ hỗ tương có lợi, giữa Trung quốc và miền Nam trong tương
lai. Từ thất bại của cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968, Cộng sản Bắc Việt
đã hiểu – nhưng các nhân vật thiên tả phương Tây không bao giờ hiểu được – là nước
Cộng hòa Việt Nam có một tương lai rất lâu dài: ngoại trừ, phải phá hũy nó bằng
một cuộc tấn công quân sự thuần túy và mạnh mẽ.
Nói
về chủ đề của một cuộc xâm lược vũ trang thuần túy và mạnh mẽ, trong Black
April, George
J Veith nhận
định rằng, phải rất sáng suốt và vô cùng thận trọng. Cộng sản miền Bắc không những
có được vũ khí tối tân và sức người mà còn có cả hệ thống chỉ huy hữu hiệu.
Veith chỉ trích nặng nề “yếu điểm”của Thiệu trong cách điều hợp giữa Tổng Hành
Dinh và các quân đoàn độc lập “đã ngăn cản sự phối hợp yểm trợ, đánh trả các
trận tấn công trên
toàn nước.”Mặt
khác, thật là một sai lầm khi tin rằng cái gọi là, chỉ có quân đội Nhân dân là độc
quyền có tinh thần chiến đấu. Những người lính Cộng hòa miền Nam đã thể hiện
tinh thần chiến đấu can trường của họ không những chỉ ở chìến trường Xuân Lộc,
mà còn ở cả Hố Nai, Tân Sơn Nhứt và ở nhiều góc trời quên lãng khác mà hiện
nay, lạy Chúa, được gọi tên là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Người
dich: Hong Kelly